Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn THƠ ĐƯỜNG CỔ

Tòng quân hành kỳ 4 - Vương Xương Linh

Hình ảnh
17.01.2010 Tòng quân hành kỳ 4 - Vương Xương Linh Thanh hải trường vân ám tuyết san, Cô thành dao vọng ngọc môn quan. Hoàng sa bắc chiến xuyên kim giáp, Bất phá lâu lan chung bất hoàn. Dịch nghĩa Bài hành tòng quân kỳ 4 Biển thẫm mây mờ che núi tuyết Cô thành vọng ải Ngọc Môn xa Bụi vàng Bắc phạt dầy kim giáp Chưa phá Lâu lan, biệt xứ nhà ! (Bản dịch của Shiroi) http://www.daovien.net

Trúc Lý quán - Vương Duy

Hình ảnh
16.01.2010 rúc Lý quán - Vương Duy 竹里館 獨坐幽篁裡, 彈琴復長嘯。 深林人不知, 明月來相照。 Độc toạ u hoàng lý, Đàn cầm phục trường khiếu. Thâm lâm nhân bất tri, Minh nguyệt lai tương chiếu. Dịch nghĩa Quán Trúc Lý Một mình trong khóm trúc Gảy đàn rồi hát chơi Rừng sâu không kẻ biết Trăng sáng chiếu lên người (Bản dịch của Trần Trọng San) http://www.daovien.net

Mạn thành - Đỗ Phủ

Hình ảnh
16.01.2010   Mạn thành - Đỗ Phủ Giang nguyệt khứ nhơn chỉ sổ xích Phong đăng chiếu dạ dục tam canh Sa đầu túc lộ liên quyền tĩnh Thuyền vĩ khiêu ngư bát lạt minh. Dịch nghĩa Tản Mạn Trăng trên sông đến với người chỉ cách vài thước Ánh đèn chiếu sáng giữa đêm sắp điểm canh ba Con cò trắng nghiêng đầu co chân yên tĩnh Ở đuôi thuyền, cả nhảy quẩy nước tạo ra tiếng nước Tản Mạn Kề tựa trên sông bóng nguyệt ngời Canh ba sắp điểm ánh đèn khơi Nghiêng đầu cò trắng lim dim ngủ Cá nhảy sau thuyền động nước chơi (Bản dịch của Shiroi) http://www.daovien.net

Hà mãn tử

Hình ảnh
15.01.2010 Hà mãn tử - Trương Hựu Cố quốc tam thiên lý, Thâm cung nhị thập niên. Nhất thanh "Hà mãn tử", Song lệ lạc quân tiền. Dịch nghĩa Hà mãn tử Quê cũ cách xa đến ba nghìn dặm, Vào nơi cung sâu đã hai mươi năm. Một tiếng ca Hà Mãn Tử, Hai hàng lệ rơi trước mặt nhà vua. Dịch thơ Hà Mãn Tử Quê hương cũ cách ba nghìn dặm Hai mươi năm cung cấm đã là Trổi "Hà Mãn Tử" lời ca Trước vua lệ chảy xót xa đôi dòng (Bản dịch của Shiroi) Hà mãn tử (何滿子) là tên một bài hát. Niên hiệu Khai Nguyên đời Đường, một con hát ở Thương Châu bị tội tử hình, dâng khúc Hà mãn tử để xin chuộc mạng, nhưng cũng không khỏi chết. Về sau điệu ấy được lưu hành rộng rãi, nhất là đời Tống, trở thành một thể tài của loại từ. http://www.daovien.net

Trúc chi từ

Hình ảnh
14.01.2010 Trúc chi từ kỳ 10 - Lưu Vũ Tích 竹枝詞其十 楊柳青青江水平, 聞郎江上唱歌聲。 東邊日出西邊雨, 道是無晴還有情 Dương liễu thanh thanh giang thuỷ bình, Văn lang giang thượng xướng ca thanh. Đông biên nhật xuất tây biên vũ, Đạo thị vô tình hoàn hữu tình. Dịch nghĩa Trúc Chi Từ Dương liễu xanh xanh, nước sông phẳng lặng Nghe tiếng chàng hát trên sông Phía đông mặt trời ló dạng, phía tây trời đang mưa Bảo rằng không tạnh mà lại tạnh.* * Câu này có sự chơi chữ "hài thanh song quan", hai chữ "tình" câu cuối có nghĩa là "trời tạnh", ứng với 3 câu "đông nắng tây mưa" nhưng ngầm biểu đạt chữ "tình" là tình yêu. (vì có ẩn ý "hài thanh song quan" trong câu thứ tư của bài thơ, Shiroi không dịch thơ, vì không thể nói lên hết cái hay của bài thơ) Bài "Trúc chi từ" này mô phỏng làn điệu dân ca "Trúc chi" vùng Hồ, Tương, khác với "Trúc chi từ" vùng Quỳ châu. http://www.daovien.net

Trừ Châu Tây Giản

Hình ảnh
13.01.2010 Trừ Châu Tây Giản - Vi Ứng Vật 滁州西澗 獨憐幽草澗邊生, 上有黃鸝深樹鳴。 春潮帶雨晚來急, 野渡無人舟自橫 Độc liên u giản thảo biên sinh Thượng hữu hoàng ly thâm thụ minh Xuân trào đái vũ vãn lai cấp Dã độ vô nhân chu tự hoành. Dịch nghĩa Lạch tây ở Trừ Châu Riêng thương cỏ âm thầm mọc bên lạch, Trên có cái oanh vàng hót trong cây um tùm. Thủy triều mùa xuân đem theo mưa, trời sập tối Đò đồng quạnh vắng, con thuyền tự quay ngang. Lạch tây ở Trừ Châu Xót thương bến nước cỏ xanh vàng, Cây rậm cành cao, oanh hót vang. Mưa dịp triều xuân, trời sập tối, Chiếc đò quạnh vắng tự quay ngang. (Bản dịch của Tương Như) http://www.daovien.net

Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt

Hình ảnh
12.01.2010 Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt - Bạch Cư Dị 賦 得 古 原 草 送 別 離 離 原 上 草 一 歲 一 枯 榮 野 火 燒 不 盡 春 風 吹 又 生 遠 芳 侵 古 道 晴 翠 接 荒 城 又 送 王 孫 去 萋 萋 滿 別 情 Ly ly nguyên thượng thảo Nhất tuế nhất khô vinh Dã hoả thiêu bất tận Xuân phong xuy hựu sinh Viễn phương xâm cổ đạo Tình thuý tiếp hoang thành Hựu tống vương tôn khứ Thê thê mãn biệt tình Dịch nghĩa Tiễn khách trên cánh đồng cỏ xưa Cỏ mọc um tùm trên cánh đồng Mỗi năm một lần khô héo rồi xanh tốt Lửa đồng nội đốt không tận Khi có gió xuân thổi thì sinh xôi trở lại Hương cỏ thơm bừng trên đường cũ Màu cỏ xanh biếc tới tường thành hoang Khi đưa tiễn vương tôn hồi phủ Vẻ tươi đẹp thắm đượm lúc chia tay Dịch thơ : Cỏ đồng xanh mát rượi Mỗi năm héo rồi tươi Lửa đồng thiêu chẳng rụi Gió xuân thổi sinh xôi Hương đồng lan ngập lối Xanh ngát tới thành đê Đưa vương tôn về phủ Tình ly biệt lê thê . (Bản dịch của Nguyễn phước Hậu ) http://www.daovien.net/

Vịnh Nga

Hình ảnh
11.01.2010 Vịnh Nga - Lạc Tân Vương Nga nga nga Khúc hạng hướng thiên ca Bạch mao phù lục thủy Hồng chưởng bát thanh ba. Vịnh Ngan Ngan ngan ngan Vươn cổ ngoảnh trời vang Lông trắng nền ao lục Chân hồng đẩy sóng dâng (Shiroi) http://www.daovien.net

Bạch Liên

Hình ảnh
10.01.2010 Bạch Liên - Lục Quy Mông 白蓮 素 蘤 多 蒙 別 艶 欺 此 花 端 合 在 瑤 池 無 情 有 恨 何 人 覺 月 曉 風 清 欲 墮 時 Tố hoa đa mông biệt diễm khi Thử hoa đoan hợp tại Dao Trì Vô tình hữu hận hà nhân giác Nguyệt hiểu phong thanh dục đọa thì. Dịch Thơ Sen Trắng Sắc nõn ai vùi chịu lấn khi Nhưng hoa kết nụ tại Dao Trì Không tình nuốt hận nào ai biết Gió mát trăng non muốn đọa gì ? (Bài dịch của Shiroi) http://www.daovien.net

Vịnh Liễu - Hạ Tri Chương

Hình ảnh
01.01.2011 Vịnh liễu - Hạ Tri Chương 詠 柳 碧 玉 妝 成 一 樹 高, 萬 條 垂 下 綠 絲 絛。 不 知 細 葉 誰 裁 出, 二 月 春 風 似 剪 刀 Vịnh liễu Bích ngọc trang thành nhất thụ cao, Vạn điều thuỳ hạ lục ty thao. Bất tri tế diệp thuỳ tài xuất, Nhị nguyệt xuân phong tự tiễn đao. Dịch nghĩa Vịnh liễu Ngọc biếc trang điểm thành một cây cao, Vạn nhành rủ xuống những sợi tơ biếc. Chẳng biết những lá mảnh mai đã bị ai cắt mất, Gió xuân tháng hai tựa chiếc kéo. Dịch thơ Vịnh liễu Trang hoàng ngọc bích một nhành cao Rủ sợi muôn tơ ánh biếc màu Lá mảnh nào hay ai cắt xén Xuân thời ngọn gió bén như dao (Shiroi)   http://www.daovien.net

Xuân Khuê Tứ - Trương Trọng Tố

Hình ảnh
02.01.2011 Xuân Khuê Tứ - Trương Trọng Tố 春 閨 思 嬝 嬝 城 邊 柳 青 青 陌 上 桑 提 籠 忘 采 葉 昨 夜 夢 漁 陽 Niệu niệu thành biên liễu Thanh thanh mạch thượng tang Đề lung vong thải diệp Tạc dạ mộng Ngư Dương Dịch thơ Ý Xuân nơi phòng khuê Bên thành liễu phất phới Trên ruộng dâu xanh xanh Mang lộng chừ quên hái Ngư Dương đêm mộng lành (Shiroi) http://www.daovien.net

Tầm Ẩn Giả Bất Ngộ

Hình ảnh
08.01.2010 Tầm Ẩn Giả Bất Ngộ - Giả Đảo Tùng hạ vấn đồng tử Ngôn sư thái dược khứ Chỉ tại thử sơn trung Vân thâm bất tri xứ. 尋 隱 者 不 遇 松下問童子, 言師採藥去。 只在此山中, 雲深不知處。 Dịch Thơ Tìm Ẩn Sĩ Không Gặp Gốc thông hỏi chú học trò Rằng: thầy hái thuốc lò mò đi xa Ở trong núi ấy thôi mà Mây che mù mịt biết là đi đâu. (Tản Đà) Dưới thông hỏi chú tiểu đồng, Rằng :” Thầy hái thuốc, nên không có nhà. Núi này quanh quất không xa, Nhưng mây nhiều, biết đâu là chốn đi. (Trần Trọng San) Dưới tùng hỏi tiểu đồng, Nói: Thầy đi hái thuốc. Chỉ trong dãy núi này, Mây mù không thấy được. (Tương Như) Dưới cội tùng nghe trẻ Rằng thầy hái thuốc xa Chỉ trong vòng núi ấy Mây thẫm khó tìm ra (Shiroi) http://www.daovien.net

Vi Thảo Đương Tác Lan

Hình ảnh
05.01.2010 Vi Thảo Đương Tác Lan - Lý Bạch 為 草 當 作 蘭 為 草 當 作 蘭 為 木 當 作 松 蘭 幽 香 風 遠 松 寒 不 改 容 Vi thảo đương tác lan Vi mộc đương tác tùng Lan u hương phong viễn Tùng hàn bất cải dung. Dịch thơ Từ cỏ vươn thành Lan Từ cỏ vươn thành Lan Từ cây hóa cội tùng Hương lan thầm quyện gió Tùng lạnh chẳng thay dung (Shiroi) http://www.daovien.net

Tuyệt cú tứ thủ

Hình ảnh
04.01.2010 絕句四首其三 兩個黃鸝鳴翠柳, 一行白鷺上青天。 窗含西嶺千秋雪, 門泊東吳萬里船。 Tuyệt cú tứ thủ (kỳ Tam) Đường - Đỗ Phủ Lưỡng cá hoàng ly minh thuý liễu, Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên. Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết, Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền. Dịch Nghĩa Đôi chim oanh vàng hót trong liễu biếc, Một hàng cò trắng bay lên trời xanh Cửa sổ ngậm tuyết Tây Lĩnh đọng hàng nghìn năm Trước cửa thuyền Đông Ngô từ muôn dặm đến đỗ - Tuyệt cú bốn bài (bài 3) (Người dịch: Tản Đà) Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc, Một hàng cò trắng vút trời xanh. Nghìn năm tuyết núi song in sắc, Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình. - Bản dịch của Tương Như Liễu xanh hót cặp oanh vàng, Trời lam trắng điểm một hàng cò bay. Song lồng mái tuyết non Tây, Thuyền Ngô muôn dặm đỗ ngay cửa ngoài. http://www.daovien.net

Kim lũ y

Hình ảnh
03.01.2010 金縷衣 - 杜秋娘 勸君莫惜金縷衣, 勸君惜取少年時。 花開堪折直須折, 莫待無花空折枝。 Kim lũ y - Đường - Đỗ Thu Nương Khuyến quân mạc tích kim lũ y, Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì; Hoa khai kham chiết trực tu chiết, Mạc đãi vô hoa không chiết chi. Áo kim tuyến (Người dịch: Nguyễn Lãm Thắng) Tiếc chi chiếc áo thêu vàng Khuyên chàng hãy tiếc tuổi chàng xuân xanh Hoa khoe sắc, hãy bẻ nhanh Đừng chờ hoa rụng, bẻ cành làm chi! http://www.daovien.net

Từ Ô dạ đề

Hình ảnh
02.01.2010 慈烏夜啼 慈烏失其母, 啞啞吐哀音, 畫夜不飛去, 經年守故林。 夜夜夜半啼, 聞者為沾襟; 聲中如告訴, 未盡反哺心。 百鳥豈無母, 爾獨哀怨深? 應是母慈重, 使爾悲不任。 昔有吳起者, 母歿喪不臨, 嗟哉斯徒輩, 其心不如禽! 慈烏復慈烏, 鳥中之曾參。 Phiên âm: Từ ô thất kỳ mẫu, Á á thổ ai âm. Triêu dạ bất phi khứ, Kinh niên thủ cố lâm. Dạ, dạ, dạ bán đề, Văn giả vi chiêm khâm. Thanh trung như cáo tố, Vị tận phản bộ tâm. Bách điểu khởi vô mẫu, Nhĩ độc ai oán thâm. Ứng thị mẫu từ trọng, Sử nhĩ bi bất nhâm. Tích hữu Ngô Khởi giả, Mẫu một táng bất lâm. Ta tai tư đồ bối, Kỳ tâm bất như cầm. Từ ô phục từ ô, Điểu trung chi Tăng Sâm. Đường - Bạch Cư Dị http://www.daovien.net

Quạ hiền kêu đêm

Hình ảnh
01.01.2010 Quạ hiền vừa mất mẹ rồi, "Quà quà", kêu tiếng buồn ôi là buồn. Chẳng bay đi, ở đấy luôn, Quanh năm vẫn giữ cội nguồn rừng xưa. Nửa đêm kêu tiếng thảm chưa, Áo người thấm lệ khi vừa nghe kêu. Tiếng kêu như muốn tỏ điều: Chăm nuôi, đền đáp bấy nhiêu chưa vừa. Trăm loài không có mẹ ư? Riêng mày thương xót, thật chưa ai bằng. Niềm thương của mẹ nặng chăng, Khiến mày sầu khổ chẳng dằn được ư? Có ông Ngô-Khởi thuở xưa, Mẹ ông khi chết, không đưa đám bà. Than ôi cái lũ người ta, Dạ lòng của họ thua xa chim trời. Quạ hiền, hỡi quạ hiền ơi, Trong loài chim, chính mày thời Tăng-Sâm... http://www.daovien.net