Lời giới thiệu thơ Hàn Mạc Tử

 
 http://images.yume.vn/blog/200905/02/12769201241258087.jpg
 
Lời giới thiệu

     Trong phong trào thơ mới Hàn Mạc Tử là một tài năng lạ. Ông chỉ có mặt trong đời trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng ngay trong quãng đời ngắn ngủi ấy nhiều năm Hàn Mạc Tử cũng phải sống cách biệt với mọi người do căn bệnh hiểm nghèo của mình. Nhưng Hàn Mạc Tử đã sống hết mình để có được một sức sáng tạo lớn.
    “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng con tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận hờn đến gần đứt sự sống” (1)
(1)  Tựa “Thơ điên”1938

    Những cung đàn vui buồn, những giận hờn đau đớn cũng như bao khát khao và những lời cầu nguyện đều in đậm dấu trong thơ. Trong khoảng mười năm trời Hàn Mạc Tử đã đi từ thơ Đường đến lãng mạn, tượng trưng cho siêu thực. Cái tôi chữ tình cũng biến hoá với nhiều sắc thái, khi gần gũi với con người, khi hòa nhập với với thế giới  trăng sao, khi chìm đắm trong nỗi buồn và có lúc hồn thơ lâng nhẹ như đôi cánh. Chúng ta bắt gặp một hồn thơ mới mẻ trong khuân khổ Đường luật qua Lệ Thanh Thi Tập. Nhiều khi bài thơ đã lọt vào mắt xanh của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu với những lời ca ngợi nồng nhiệt. “Từ khi về nước đến nay được xem nhiều văn thơ quốc âm song chưa gặp được bài nào hay đến thế. Hồng nam nhạn bắc ước cao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười to một tiếng, ấy là thoả hồn thơ đó”.
   Hàn Mạc Tử đã thỏi hồn vào thơ sinh khí của tuổi trẻ và hơi ấm của cuộc đời, để tạo nên những câu thơ có dáng vẻ riêng.

   Thơ Hàn Mạc Tử đã đi từ cuộc đời để đến với những cõi xa xôi. Dấu vết của sự sống in đậm hơn cả là những miền quê. Không miêu tả bức tranh quê như Anh Thơ, những sinh hoạt hội hè như Đoàn Văn Cừ hoặc đắm đuối yêu thương trong tình quê như Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử đế với quê hương trong nhưng khoảng khắc bừng sáng của tâm hồn và những giây phút chạnh lòng thương nhớ đến không nguôi. Tình quê theo cách nhìn, cách cảm của thi sĩ không chỉ là tình người, tình đời chốn quê hương mà sâu xa hơn còn biểu hiện trong tiếng nói nhớ thương của thiên nhiên tạo vật, từ đám mây chiều phiêu bạt, dòng nước buồn đến luỹ tre, bờ liễu, ngàn lau…

     Mùa xuân chín và Đây thôn vĩ dạ là những bức tranh đẹp, tiềm ẩm nhiều chất sống của làng quê. Hàn Mạc Tử  không khơi sâu, không khai thác những mảng sống thực bộn bề, tác giả chỉ bắt lấy những nét như thoáng qua mà lại chứa đựng cái tinh chất và đằm thắm tha thiết trong bức tranh quê hương. Không  phải cái đẹp tĩnh lặng “cỏ non xanh tận chân trời” mà là cỏ xanh tươi đang gợi sóng và những lượn sóng đưa mãi tới trời, cho phù hợp với không khí vui chơi ca hátcủa những cô gái quê. Có thể nói “ Mùa xuân chín” đã thâu tóm cái ý vị thanh tao và tươi tắn nhất của phần Gái quê:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”

    Đây thôn Vĩ Dạ là một cấu trúc thơ có bề nổi và chìm. Không gian được mở ra từ một vườn cây tươi tốt đến mmọt vùng quê, một đêm trăng bát ngát Thời gian có vẻ đẹp của một bình minh dào dạt sự sống, có cả xế chiều và chiều tối. Thiên nhiên với nhiều vẻ sinh động tươi tắn " Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" và cả cảnh đượm buồn: " Gió theo lối gió, mây đường mây. Dòng nước buồn thiu hao bắp lay", rồi nét thơ mộng của thuyền trằn, bến trăng, sông trăng. Mến cảnh mến người nhưng Hàn Mạc Tử  vẫn dè dặt lắm trong cái mờ ảo, mômg lung của cuộc đời và của tình người:
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà"

    Hàn Mạc Tử mang nặng khối tình của tình yêu lứa đôi. Có lẽ trong phong trào thơ mới chưa có nhà thơ nào, cho dù những người đa tình như Xuân Diệu.
   
    Lưu Trọng Lư… lại có nhiều bóng dáng người tình trong thơ đến thế. Có thể mỗi nhà thơ có một cách riêng để bày tỏ tình yêu và thờ phụng người yêu của mình. Trong thơ Hàn Mạc Tử nói trực tiếp đến người yêu: Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Ngọc Sương, Mai Đình, Thương Thương… những bóng dáng yêu thương đã góp phần khơi nguồn sáng tạo cho thơ và làm dịu nỗi cô đơn, đau đớn của Hàn Mạc Tử không giấu giếm nỗi lòng của mình với người yêu với thơ:
" Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước mơ"
                                                                                 (em lấy chồng)
"Vườn chói lọi thì tình yêu phải ngợp
Tiết trinh còn em phúc hậu hơn thơ."

    Thơ đã đem đến cho tâm hồn Hàn Mạc Tử những phút giây sáng láng của sức sáng tạo và tình yêu mang tới hạnh phúc nhiều lúc tràn đầy. Thơ tình của Hàn Mạc Tử cũng có những lúc da diết, thật mãnh liệt. Đã đến với vườn địa đàng này chỉ biết có nhau:
"Chỉ biết có đôi ta đang sống
Đang cho nhau ngọt ngào và đang mơ mộng
Cứ nhắm mắt, cứ yêu nnhay như chết
Cứ sáng sốt đê mê và rũ liệt"
"Đôi ta"

    Hàn Mạc Tử đã có những câu thơ hay rất hay khi nói về trạng thái nhớ thương xa cách. Một trong những dấu hiệu đích thực, dấu hiệu đảm bảo sự có mặt và tồn tại của tình yêu là tình cảm nhớ thương cũng là hạnh phúc, nếu nỗi nhớ thương ấy nằm trong sự hò hẹn, trong quyến luyến của tình cảm lức đôi.

    Khi xa cách không gì bằng thương nhớ. Có thể hàn Mạc Tử ở vào cảnh ngộ đặc biệt, chịu đựng cô đơn nên nỗi nhớ da diết quá:
"Nhớ lắm lúc như si như dại
Nhớ lắm sao bải hoải tay chân
Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng
Mà ngày nào đó vẫn khăng khít nhiều…"
                                                                  (Muôn năm sầu thảm)


    Lòng "yêu vì" của tác giả đằm thắm quá, sâu sắc quá nên nỗi nhớ mang dáng vẻ riêng:
" Họ đã xa rồi khôn níu lại
Lòng thương chưa đến, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồnh tôi bỗng dại khờ'
                                              (Những giọt lệ)

    Trong thơ Hàn Mạc Tử cũng có niềm vui hiện đại nhưng chủ yếu là nỗi buồn xa cách, nỗi buồn trở về với kỷ niệm: " Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt. Mộng có thành là mông đầu hôm", và quá khứ cũng chất chứa nhiều khổ đau, có lúc tưởng như muốn nạm vàng kỷ niệm, có lúc lại muốn xoá đi dấu tích. Trong tình yêu người thi sĩ như không làm chủ được mình mà cuốn đi theo say mê, bị xô đẩy theo những đợt sóng của tình yêu trong vui buồn, đau khổ:
"Anh điên, anh nói như ngây dại
Van lạy không gian xoá những ngày
Những ngày đau khổ nhuôm buồn thiu
Những áng mây lam cuốn dập dìu
Những mảng nhạc vàng rơi lả tả
Những niềm run rẩy của đêm yêu"
                                                          (Lưu luyến)

    Có nhiều nguyên nhân gây nên những đâu khổ trong tình yêu, hoàn cảnh của Hàn Mạc Tử, một thanh niên mới bước vào đời với bao mộng đẹp lại bắt gặp những cảnh ngộ ngang trái đầy nghịnh lý. Tình yêu không dễ tìm được sự đền đáp, tình cảnh cô đơn cách biệt và những phi lý trong đời dễ đẩy con người vào sự bế tắc tù túng. Nếu ở Chế Lan Viên là khát khao vô vọng:
"Trời xanh ơi hơi xanh khôn nói
Hồn ta muốn biết chẳng cùng cho"
  Và Phạm Hầu cũng ở trạng thái tương tự
"Tôi theo tư tưởng vô tận
Chí gặp vô cùng nỗi quạnh hưu"
   Hàn Mạc Tử lại bộc lộ ghê sợ cảnh tù đọng đen tối"
"Chao ôi, ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời"
(Cô liêu)

   Từ thân xác cho đến phần hồn, Hàn Mạc Tử luôn thấy rõ sự tù túng không hướng giải quyết:
"Ôi ngông cuồng, ôi rồ dại, rồ dại
Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta"
   Trong các nhà thơ mới có lẽ Hàn Mạc Tử ở vào tình thế u uất ngột ngạt nhất. Cũng vì thế mà tác giả luôn mơ ước một điều gì mới mẻ, nguyên vẹn chưa hề bị cuộc đờichia sẻ làm cho tan nát và xưa cũ đi. Trí tưởng tượng phong phú của Hàn Mạc Tử, đức tin ở Chúa trời, thế giới linh thiêng của tôn giáo đã tạo cho Hàn Mạc tử những hình tượng thơ vàư như thoát ra từ đờiđể đến với một cõi  xa xôi nào. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Hàn Mạc Tử mơ ước đến mùa xuân đầu tiên:
"Mai này thiên địa mới tinh khôi
Gió căng hơi và nhạc lên trời
Chim khuyên hót tiếng đầu tiên hết
Hoa lá hồ nghi sự lạ đời"

    Hàn Mạc Tử đi giữa hai bờ thực và hư, điều không tìm thấy ở thế giới thực sự tìm trong thế giới của ước mơ, ảo mộng. Những mộng tưởng của tác giả khá mạnh mẽ để có thể hình dung ra một thế giới được giải thoát, phóng khoáng tự do, không chắp vá:
"Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang
Sự qui tụ thâu về trong một khối
Và tư tưởng không bao giờ chắp nối
Và vì sao? Vì sợ kém thiêng liêng
Trí vô cùng lan nghĩ rộng vô biên
Cắt nghĩa hết những anh hoa huyền bí
Trời bát ngát không cần phô triết lý
Thơ láng lai chấp choáng những hàng châu"
(Siêu thoát)

   Và có thế nói Hàn Mạc Tử mơ ước về một thế giới trên đó là hình ảnh tương phản với cuộc đời chật chội gò bó. Trong Hàn Mạc Tử có hiện tượng như phân thân, trước hết là phân thân giữa phần hồn và xác. Phần hồn có sự sống riên của nó, cũng niềm vui, nỗi buồn và sự khổ đau. "Có ai bảo tôi có xác mà không có hồn" (Chiêm bao với sự thực), và nhà thơ đã lấy hồn làm điểm tựa ở cõi hư linh với sự sống cụ thể "Tôi không thở bằng phổi nữa, tôi thở bằng hơi thở tinh sạch của hồn tôi…", "Tôi hứng lấy và nhận lấy ở trong hòn muôn ý tứ và muôn thanh sắc của trời mộng xa xưa", và thơ Hàn Mạc Tử đã biểu hiện hiện tượng thoát xác:
"Anh đã thoát hồn ra ngoài xác thịt
Để chập chờn trong ánh sáng mông lung"
(Sáng láng)
   Tác giả như muốn tồn tại ở ngoài thân xác:
"Chúng tôi lại là người của ước mơ
Không x ác thịt chỉ có linh hồn đang mộng"
(Rượt trăng)

Hồn đi về trong mộng ước:
"Kéo mền ủ kín toàn thân lại
Để thả hồn bay gửi mộng về"
(Hãy đón hòn anh)

Hồn đi về trong sáng tạo thi ca:
"Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang"

   Không riêng Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên cũng muốn lì bỏ thân xác để hoà tan trong ánh trăng trong: "Tôi là kết tinh của ánh trăng trong. Sao không cho tôi đến chỗ hư không" (Tắm trăng).

   Huy Cận cũng cảm thấy thân thể là "Bình thịt xương để chứa đựng tâm hồn", vì chính thịt xương đã "chia biệt người ra từng xứ cô đơn". Trình bày trước đấng uy linh tối cao, Huy cận chân thật cầu xin:
"Thân quá nặng nên hồn sa xuông thấp
Chớ giận chi những kẻ mât thiên đường"
(Thân thể)

   Nếu ở Chế Lan Viên và Huy Cận chỉ là hiện tượng đơn lẻ thì với Hàn Mạc Tử là một quan niệm, một triết lý sống. Điều này càng rõ rệt khi Hàn Mạc Tử là một con chiên ngoan đạo, luôn tôn thờ ơn trên. đức tin và phước lành. "Lạy Chúa trời tôi ! hãy ban cho tôi hằng sa số là ơn lành, ơn cả… thì tôi sự rất no, rất ơn, rất nư trọng vọng như tài hoa, cao sang như nhân đức, chói chang vô vàn phước lộc" Không phải chuyển dịnh niềm tin và sự cầu xin đến nhiều đáng thiên liêng khác nhau, Hàn Mạc Tử chỉ một lòng kính Chúa và niềm tin thiêng liêng đó đã đem đến cho thơ những phẩm chất cao sang, thanh khiết vì nó là lời cầu xin chân thành của một con người  đau khổ.
     Sự phân thân trong thơ Hàn Mạc Tử còn biểu hiện ở sự chứa chất thêm sự giao hoà với nhưỡng hiện tượng thiên nhiên đẹp đặc biệưt là với vầng trăng, với cái nhình tinh tế vầng trăng cũng trở nên đa tình:
 -"Trăng nằm sõng soài trên canh liễu
Đợi gió đông về lả lơi"
-"Ô kìa bóng nguyệt tràn truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe"

   Hàn Mạc Tử tôn trọng vẻ đẹp khách quan của vàng trăng  nhưng vầng trăng không xa cách mà trở nên gần gũi, mang nhân tính sâu sắc:
"Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi lại đỏ hườm"
(Sáng trăng)
"Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vớ rồi
Ta nhớ mình tha thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chi phôi"
(Một nửa trăng)

   Có khi vầng trăng lên cao và nhà thơ suy tôn vẻ đẹp thiêng liêng của nó:
"Lạy Chúa tôi vầng trăng cao giá lắm
Xin ban ơn bằng cách ánh thêm lên"
(Vầng trăng)

   Rồi trăng chẳng ai khác, có lúc trăng là nàng Thương Thương:
"Tôi lại gần bên, ôi! Chính là Thương Thương"
(Tiên sầu)

  Là trăng nhập vào trong ngay chính bản thân tác giả:
-"A ha!Lòng tôi trăng là trăng"
-"Cả miệng ta là trăng, là trăng"

   Trăng có mặt trong đời sống của tác giả, trong niềm vui, mộng đẹp, nỗi khổ đau và có khả năng cảm thông, chuyển hoá như hai đối tượng gần gũi. Đây là một hiện tượng rất mới mẻ của thơ mới. Hàn Mạc Tử đã xáo trộn nhưng quan hệ trong cuộc sống và thi ca. Lôgic của thơ ca không được theo trật tự bình thường của một hiện tượng quen thuộc mà là siêu hiện thực. Ở Hàn Mạc Tử các yếu tố lãng mạn, tượng trưng , siêu thực như những yếu tố biết quy tụ vào tư tưởng chung bao quát của thơ. Bên trong cấu trúc của bài thơ là những liên hệ, những đường dây liên tưởng chìm sâu  và biế hoá theo mạnh tư tưởng, tình cảm của tác giả. Thơ Hàn Mạc Tử là tiếng nói đau thương về những kỷ niệm đã mất, về tình trạng không như ý trước cuộc đời. Nhưng chính ở Hàn Mạc Tử cũng mang  theo bao khát khao về sự sống với ý thơ hồn hậu. Chúng ta bắt gặp trong thơ Hàn Mạc Tử nhiều ánh sáng và mầu sắc, nhiều âm thanh và nhiều hương thơm. Không thiết tha với cuộc sống làm sao có thể biết:
"Xuân thơm bối rối ngọt vô cúng "
(Nhớ thương)

"Lụa là ước đẫm cá trăng thơm"
"Còn đâu tráng lệ nhữnng thời xanh
Mùi vị thơm tho một ái tình"
(Thời gian)

"Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái cảu ni cô"

   Nhận xét về Hàn Mạc Tử, tài năng lạ của một thời, Chế Lan Viên viết "Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, nai sau những cái tầm thường mữ thước kia tan biến đi còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử". Câu nói đã đề cao đích đáng tài năng của người một người, nhưng cũng không thể nào quên một thời đại thi ca, cái thời kỳ rát vẻ vang đã gợi mở và tung cánh cho những hồn thơ cho đến hôm nay vẫn còn làm cho nhiều người mến yêu, cảm phục. Ghi nhận tài năng của Hàn Mạc Tử, nhưng chúng ta còn chưa hiểu hết cái hay cái đẹp tiềm ẩn trong thơ của thi sĩ. Hàn Mạc Tử tự bộc llọ:
  
  "Giải nghĩa văn thơ thật là một vấn đề to lớn và phức tạp quá và cứ như theo lối thơ tôi làm đó thì phải giảng giải đến bao nhiêu trang giấy mà rốt cuộc chưa chắc người ta đã hiểu được tý gì. Nói như anh, thấy một cành hoa mà mường tượng ra một mùi hương, thấy một làn mây trắng tinh mà hình dung được cái gì thanh sạch ở thế giới khác, thế là đầy đủ rồi, vì tất cả thi vị là ở đây"

    Mặc dù thi sĩ họ Hàn nói thế, hôm nay và …ngày mai rồi chúng ta sẽ thấu hiểu thế giới thi ca của tác giả.


Hà Minh Đức

imgNEXT


Bài đăng phổ biến từ blog này

Chuyện lạ như thật?

Muốn